Đăng: Hồng Ân
4.5 sao trên 1024người dùng
Lượt xem: 3762 Chia sẻ:
Đúng vào mùa mưa, hàng tuần nay trời đất ngập trong tiếng rả rích không thôi. Trên đường từ trường trở về, Phương Đăng bỗng nghĩ, biết đâu ấn tượng về đảo Qua Âm luôn mịt mờ âm u của mình không phải đến từ những mảng hồi ức mà cô Chu Nhan vui miệng kể, cũng không phải đến từ vẻ u sầu trên khuôn mặt đờ đẫn của cô lúc thốt nhiên câm lặng. Có lẽ, nơi này vốn dĩ đã là cái đất khó trông rõ bầu trời, không mưa xuống thì sương lên, cái buồn tự nhiên ngấm vào tận xương tủy con người ta lúc nào không rõ.
Đến căn nhà giữa ngõ, Phương Đăng cụp ô lại, bước vào một lối nhỏ vừa tối vừa hẹp. Tiếng ông chủ trước cửa hàng hóa vọng ra cùng với mùi nước tiểu khai nồng cứ bảng lảng không tan.
“Con bé nhà họ Phương, không mời ta sang uống rượu “Huyết Nùng” à?”
Phương Đăng không đáp, vẩy vẩy cái ô cũ cho róc nước, cứ thế bước lên tầng. Nơi trú chân mới nhất của nó và cha nằm trong con ngõ thuộc trung tâm hòn đảo. Nói một cách chính xác, đó là căn nhà xây trộm, chen giữa giáo đường Thiên chúa đã bỏ hoang và cô nhi viện Thánh Ân cũ kỹ - hai tòa kiến trúc lụ khụ như mấy chiếc răng lung lay trong miệng bà lão tám mươi. Dưới tầng là cửa tiệm tạp hóa duy nhất trên đảo, ngay đối diện chính là Phó gia viện lừng danh, khu biệt thự nằm ở vị trí được xem là thắng địa trời cho. Ông chủ tiệm tạp hóa dùng gạch đỏ, đắp nên căn nhà hai tầng rưỡi xiêu xiêu vẹo vẹo, trên nóc lợp ngói a-mi-ăng, tầng trệt để bán hàng và ở, tầng trên ngăn thành vài cái “Chuồng bố câu” đem cho thuê. Phương Đăng và cha ở căn gác xép nhô ra trên tầng hai rưỡi. Mỗi lần mưa lớn, dường như những viên ngói a-mi-ăng sát trên đầu cũng muốn sụt sùi nhỏ lệ.
Phương Đăng bước vào trong căn gác hai gian ngăn bằng mảnh vải. Quả đúng như nó dự liệu, ông Phương Học Nông cha nó đang nằm gà gật trên cái giường trúc ở mé cửa. Chiếc xô nhựa nhỏ trước khi ra ngoài Phương Đăng để hứng nước mưa giờ đã tràn đầy, nước từ mép xô tràn ra liên tục, vậy mà ông Phương Học Nông vẫn say giấc, chẳng hay biết gì.
Phương Đăng lẳng lặng xách xô ra cửa sổ, mạnh tay hất xuống. Có lẽ vách cửa bị bắn nước, có tiếng ông chủ tiệm tạp hóa chửi ra. Đúng vào lúc ấy, Phương Đăng trông thấy căn phòng nhỏ nhìn ra đường nằm trên gác hai mé đông Phó gia viện lay động. Có lẽ người trong phòng bị tiếng đổ nước ào ào của nó làm kinh động, một bàn tay khẽ vén góc rèm cửa sổ lên làm lộ ra một nửa gương mặt người. Trước khi tấm rèm cũ khép lại như cũ, cái cửa chớp vốn đang mở đã nhẹ nhàng sập xuống.
Đây là lần đầu tiên kể từ khi chuyển tới Phương Đăng thấy động tĩnh từ phía đối diện. Vài ngày trước đến giờ, mấy tấm cửa chớp ấy luôn luôn sập kín, bao bọc tấm màn nhung màu
đỏ tươi bên trong. Thế giới trong khung cửa thần bí y như cơ ngơi từng cực thịnh nay đã thành truyền thuyết, bị thời gian làm cho hoang phế của nhà họ Phó. Chỉ cách nhau có hai ba chục mét, nhưng nơi ấy so với căn nhà hai tầng rưỡi như một trời một vực: Bên này sinh động, huyên náo tiếng người, tràn trề không khí mà tục thế nên có, ấy là cái không khí đục ngầu, thô kệch, không khí tươi non của sự sống.
không sai, so với bên này, Phó gia viện phía đối diện im ắng như đã chết. Nếu không có trận mưa đánh vào gốc cây đa cao vút ngoài sân thành tiếng ào ào, cơn gió vi vút phóng qua những hành lang trống vắng, thi thoảng ngớt mưa lại thêm tiếng cánh những con chim con vỗ phải lá của cây kê huyết đằng chằng chịt bám trên tường, thì cơ ngơi ấy y hệt chiếc quan tài thạch anh khổng lồ đang bị thời gian ngưng kết. Hoặc giả, nó giống như bicws tranh cổ ma mị trong câu chuyện liêu trai: Tịch mịch, buốt giá, dường như không có gió sương mưa tuyết nào mảy may xâm phạm nổi.
đây mới chính là đảo Qua Âm mà cô Chu Nhan đã kể. Những âm hồn co rụm, lánh thân nơi phế tích các khu đình viện xa hoa trên đảo này vốn chẳng có chút quan hệ gì với Phương Đăng, với cô ông Phương Học Nông, với gia đình lão bán tạp hóa tầng trệt hay đại đa số dân đảo bây giờ. Nếu sau tấm rèm kia có một người ngồi đó, thì chắc người ấy cũng giống cô Chu Nhan, một người đàn bà đẹp đã quá thì, da thịt cằn khô nhưng vẫn toát lên vẻ mê hoặc khiến người ta say đắm. Người đàn bà ấy ngồi trước đèn, phàm thế chỉ có thể đứng từ xa nhìn lại, mơ hồ đoán ước ánh hào quang quá vãng của bà.
Dù sao, đây đều là tưởng tượng của Phương Đăng mà thôi, nếu chịu khó nghĩ thêm chút nữa, nó sẽ phát hiện suy tưởng của mình thật khiên cưỡng. Nhà họ Phó hiển hách một thời, hiện nay dù không bì kịp năm xưa nhưng chưa đến nỗi suy tàn. Số tiền để duy trì cô nhi viện Thánh Ân thời điểm này là một phần do họ quyên góp. Người nhà giàu ăn ở thế nào, Phương Đăng làm sao nói rõ, chỉ biết chắc không thể giống như lời bà cô Chu Nhan nói, phảo dựa vào nghề “đó đó” để kiếm cái ăn. Cô và cha nó cùng một mẹ sinh ra, đời trước đều xuất thân bần hàn, nào đã hưởng sung sướng bao giờ. Những việc này Phương Đăng có nhận định riêng, chỉ nghi hoặc một chút rằng tại sao có người nói…
“Có đứng rầu rĩ thế rầu rĩ nữa, cái phòng này cũng không tự dưng mọc hoa được đâu.”
Ông Phương Học Nông trở mình một cái, khàn giọng lầu bầu làm mấy suy nghĩ vẩn vơ của Phương Đăng bị đứt đoạn hết.
Phương Đăng lịch bịch xách xô nhựa đặt vào chỗ cũ, nhanh nhảu vặc lại: “Con cần gì phải rầu, người bố chẳng đã mọc đầy rêu đấy thôi.”
Ông Phương Học Nông hầm hừ hai tiếng, hình như đang cười. Hiếm có một buổi chiểu nào không đi làm mà ông không say. Lên đảo vài ngày, Phương Đăng cảm nhận sâu sắc rằng cha nó không thẹn là người từ đảo ra đi. Dân đảo đa số đều biết mặt đặt tên ông, dĩ nhiên, quá nửa bọn họ chỉ nhớ cái biệt danh không mấy dễ nghe: “Phương Huyết Nùng”*. Mấy khuôn mặt tươi cười của họ trông cứ khinh khinh khỉnh thế nào đó.
*Huyết Nùng: mù đầy máu. Vì phát âm ba từ “Phương Huyết Nùng” giống như “Phương Học Nông” nên người dân ở đây đã đọc trại đi với ý khinh miệt.
Không thể trách người ta được, chính Phương Đăng cũng hiểu cha mình là người bạc nhược. Hồi còn trẻ ông không có công việc đàng hoàng, chỉ chuyên làm những thứ chẳng ai muốn rớ để kiếm cái ăn. Ví dụ nhà nào có trẻ con bạo bệnh chết non thường gọi ông đến, chỉ cần cho vài đồng hoặc ít gạo hay mỳ cũng được, ông sẽ mang đứa bé đi chôn hộ. Hoặc trên đảo có việc ma chay, nào tắm rửa tử thi, nào khênh áo quan, nào rắc giấy tiền… việc gì ông cũng thạo. Lúc không có mất việc như vậy thì dọn bồn xí, hốt rác cũng được, chỉ cần đổi lấy đủ tiền đống qua ngày ông đều nhận làm. Phương Học Nông chẳng phải người to gan, càng không biết giận giữ, gặp ai ác ý giễu cợt ông chỉ biết cười hì hì. Ngày thường ông chẳng bao giờ thèm chỉnh trang vẻ ngoài, dư ít tiền nào là mua rượu bằng sạch, bà con đều lấy đó trêu chọc. Chẳng nhớ ai đầu têu mà mọi người đều gọi ông là “Phương Huyết Nùng”, ấy thế mà ông cũng thưa.
Đưa cô em gái cùng mẹ khác cha Chu Nhan ra khỏi đảo vài năm, Phương Học Nông mới đầu chỉ làm các công việc vớ vẩn. Ông nghiện rượu, không làm được những công việc đòi hỏi sức khỏe thuần túy, chính vì vậy mà thời bé Phương Đăng luôn bữa no bữa đói. Sau rồi có một ngày, cô Chu Nhan căng tấm rèm vải cũ ngay trong căn nhà gỗ, Phương Học Nông lôi bé Phương Đăng ra ngoài cửa ngồi đúng một buổi chiều, cho dù con gái có hỏi thế nào, ông cũng không hé răng. Nhá nhem tối, Phương Đăng thấy cô đi ra dúi vào tay cha mấy tờ giấy bạc. Nó nhớ rất rõ, lúc ấy mặt trời vừa khuất núi, thiên không u ám dần, đầu tóc cô Chu Nhan rối bời, nhưng khuôn mặt chẳng hề có cảm xúc gì. Phương Học Nông cầm được tiền là bật khóc, đêm ấy đi uống rượu đập tan cả bình, say sưa đến tận hoàng hôn ngày hôm sau. Dần dà, ông thường dắt nhiều người đàn ông khác nhau về phòng cô Chu Nhan, rồi ngồi bên ngoài uống rượu. Những đồng bạc dù đanh mới hay cũ nát từ tay cô Chu Nhan cũng đã trở thành tiền mua cái ăn cho cả ba người. Cô Chu Nhan chết rồi, Phương Học Nông chẳng sống nổi ở bên ngoài liền dắt con gái quay về đảo Qua Âm định làm lại nghề cũ. Ông thường nhìn chằm chằm nụ cười của con gái nói một cách vô liêm sỉ rằng, thêm vài năm nữa là con gái đủ khả năng kiếm tiền dưỡng già cho bố....